Nội dung bài viết
- Phần 1: ĐẶC ĐIỂM SINH TRƯỞNG PHÁT TRIỂN CỦA CÂY GAI XANH
- Phần 2: SẢN XUẤT CÂY GAI XANH THƯƠNG PHẨM ĐẠT NĂNG XUẤT CHẤT LƯỢNG VÀ HIỆU QUẢ KINH TẾ CAO
- 2.1. VÙNG ĐỒI NÚI VÀ ĐỒNG BẰNG
- 2.2. THỔ NHƯỠNG (chọn đất)
- 2.3. KỸ THUẬT LÀM ĐẤT TRỒNG CÂY GAI XANH
- 2.4. TRỒNG CÂY RA ĐẤT SẢN XUẤT
- 2.5. THU HOẠCH VÀ HIỆU QUẢ KINH TẾ
- Phần 3: SÂU BỆNH HẠI CÂY GAI VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỪ
- Phần 4: CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ TRỒNG GAI XANH
- Phụ lục 1: ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KINH TẾ CỦA CÂY GAI XANH
Phần 1: ĐẶC ĐIỂM SINH TRƯỞNG PHÁT TRIỂN CỦA CÂY GAI XANH
Cây Gai xanh Rami có tên khoa học là: (Boehmeria nivea tenacissima (L.) Gaud.). Một số tên gọi thường gặp: gai làm bánh, gai tuyết; người Tày gọi là Trữ ma, Bẩu pán; người Thái gọi là Cọ pán; người Dao gọi là chiều đủ; người Trung Quốc gọi là chư ma. Cây gai xanh là loại cây trồng quen thuộc đối với đời sống của người dân Việt Nam, trồng chủ yếu lấy sợi để dệt vải, làm thức ăn chăn nuôi. Một số cuộc khai quật những ngôi mộ cổ đã tìm thấy các trang phục bằng sợi của cây gai mặc dù trải qua cả nhiều trăm năm vẫn còn giữ được độ dai. Ngày nay khi công nghệ may mặc phát triển, sợi làm từ cây gai xanh vẫn có những giá trị đặc biệt, do đó cây gai được đánh giá là một loại cây có giá trị kinh tế cao.
Cây gai xanh phân bố phổ biến ở vùng có nhiệt độ từ 20 – 280C, là loài cây ưa ẩm, khi non là loài cây có thể chịu bóng; mùa mưa ẩm thuận lợi cho cây gai xanh sinh trưởng phát triển, mùa đông phát triển kém rụng lá và có hiện trượng lụi tàn. Cây ra hoa mỗi năm; điều kiện ngày ngắn kích thích cây ra hoa nhanh. Cây gai có hệ rễ phát triển, là loại rễ biến thái, không thuộc hệ gốc thẳng, cũng không thuộc hệ rễ chùm; hệ rễ được cấu tạo bởi rễ củ cải (còn gọi là rễ dinh dưỡng), rễ nhánh (còn gọi là rễ bên) và rễ sợi. Cây gai xanh là loài cây có khả năng tái sinh bằng chồi rất mạnh mẽ, hoặc cũng có thể dùng thân và cành cắt ra đem giâm xuống đất; ngày nay chúng ta có thể ứng dụng công nghệ sinh học để nhân nhanh giống gai phục vụ sản xuất đại trà trong phòng thí nghiệm. Cây cho chất lượng sợi tốt khi canh tác trên vùng đất sét pha cát, có độ pH 5,5 – 6,5, thoát nước tốt tránh ngập úng. Cây chịu hạn và ngập kém. Sau khi trồng 5 – 20 ngày thân rễ bắt đầu sinh trưởng, ban đầu sinh trưởng tương đối chậm, khoảng 3 – 10 tháng sau khi trồng là có thể thu hoạch. Mùa ra hoa, quả tháng 11 – tháng 1 năm sau. Vào mùa đông cần có biện pháp giảm thiểu sự ảnh hưởng của sương muối vì nếu gặp sương muối thân ngầm sẽ bị chết.
Cây gai có thể cho thu hoạch 3-6 lứa trong năm, Số lần phụ thuộc điều kiện thổ nhưỡng, giống và nhiệt độ tại vùng trồng.
Đối với phần thân dưới của cây gai sinh trưởng liên tục, vào mùa đông sau đợt sương giáng, phần trên mặt đất sẽ khô lại và chết, nhưng thân dưới mặt đất vẫn tiếp tục sinh sống và ươm mầm, trong vòng 2 – 3 tháng sẽ thấy các chồi vươn lên mặt đất, Ở độ sâu dưới 5 cm so với bề mặt đất khi nhiệt độ xuống dưới -50C phần dưới mặt đất sinh trưởng chịu sự hạn chế, khi nhiệt độ thấp ấy duy trì trong một khoảng thời gian quá dài thì toàn bộ gốc cây gai sẽ bị lạnh chết. Ở khoảng chừng hơn 60C, thân và rễ dưới mặt đất vẫn không ngừng mọc rễ, ươm mầm một cách chậm chạp.
Đối với sự sinh trưởng của thân trên mặt đất lại chia làm giai đoạn mầm, giai đoạn sinh sôi nảy nở và giai đoạn trưởng thành của cây gai. Lấy quá trình sinh trưởng của cây gai được trồng tại khu vực sông Đà làm ví dụ, năm đầu tiên canh tác chỉ cho thu hoạch từ 1-2 lần, nhưng kể từ năm thứ 2 trở đi cây gai xanh cho thu hoạch liên tục từ 3-6 lần/ năm. Tại Giai đoạn mầm: lần đầu do nhiệt độ khá thấp, sinh trưởng sẽ chậm, tầm khoảng 1 tháng. Vào đợt gai thứ 2 và thứ 3 nhiệt độ sẽ khá cao, cùng với lượng mưa hoặc nước tưới thích hợp, thường trong vòng 5 – 7 ngày sẽ cơ bản mọc mầm đều, kéo dài 10 ngày và hai mùa trước – sau nối tiếp nhau rất sát, khi phần thân trên của mùa trước trưởng thành đạt điều kiện thu hoạch, mầm gai của mùa sau đã bắt đầu bật lên khỏi mặt đất. Bởi thế, để băng suất đạt được tối đa cần đạt được “4 nhanh” (nhanh thu hoạch, nhanh chặt thân, nhanh vun xới đất, nhanh bón phân). Tại Thời kỳ sinh trưởng mạnh: thời gian này ở đợt gai đầu kéo dài khoảng 40 ngày, với tốc độ sinh trưởng có thể đạt từ 2 – 4 cm/ ngày. Kinh nghiệm đúc kết lại: “Qua tiết lập hạ, một đêm mọc phiến lá, tiểu mãn mọc đủ, mang chủng lột vỏ” phản ánh thời kỳ sinh trưởng mạnh của đợt gai đầu vào mùa thu hoạch. Đợt gai 2, 3 trong điều kiện thuận lợi, thời gian sinh trưởng chỉ khoảng 30 ngày, tốc độ sinh trưởng có thể đạt khoảng 4-5 cm/ ngày. Tại Thời kỳ trưởng thành của sợi gai: Thời kỳ này gốc gai ngừng sinh trưởng, nhưng tầng sợi tiếp tục phát triển độ dày và trưởng thành. Có thể thu hoạch khi 1/3 đến 2/3 thân đen. Điều kiện canh tác tốt năng suất của thân gai tươi thường đạt 40 – 60 tấn/ha, sản xuất ra được 1- 1.6 tấn sợi khô và 0.500 – 1.2 tấn sợi đã loại chất keo. Ở nhiều nước một lần trồng có thể cho thu hoạch từ 7- 10 năm sau đó mới phải phá bỏ và trồng lại. Với mục đích khác như làm thức ăn cho ngàng chăn nuôi, năng suất lá có thể đến 300 tấn tươi hoặc 42 tấn khô trong vòng năm.Bởi thế trước khi áp dụng biện pháp thâm canh, cần bón đầy đủ và cân đối lượng phân hữu cơ, vi lượng và bồi đất đẻ nâng cao khả năng chống rét của gốc gai, giúp duy trì sự sống cho cây gai qua mùa đông giá rét và đảm bảo số lượng cũng như chất lượng mầm. Đồng thời khi thân trên bước vào giai đoạn phát triển cần tối ưu các điều kiện thuận lợi để cây gai phát triển tốt và cho sinh khối tối đa bằng tổ hợp các biện pháp: Làm tơi xốp đất, loại bỏ phần thân cành hư mục, đảm bảo lượng nước tưới cũng như hệ thống thoát nước tốt, bón phân đầy đủ và cân đối, phòng trừ sâu bệnh hại,…
Phần 2: SẢN XUẤT CÂY GAI XANH THƯƠNG PHẨM ĐẠT NĂNG XUẤT CHẤT LƯỢNG VÀ HIỆU QUẢ KINH TẾ CAO
Tên khoa học của cây gai xanh là: (Boehmeria nivea tenacissima (L.) Gaud.). Một số tên thường gọi của cây gai xanh: gai làm bánh, gai tuyết; Trữ ma, Bẩu pán, Cọ pán, chiều đủ, chư ma,… Cây gai xanh được trồng lâu đời và thân thuộc với đời sống của người dân Việt Nam lấy sợi để dệt vải, làm thức ăn chăn nuôi,… Cây gai xanh có thể được nhân giống đại trà bằng các phương pháp nhân giống vô tính như: giâm cành, giâm hom, nhân nhanh chồi trong phòng thí nghiệm,…Sau giai đoạn vườn ươm cây Gai xanh có thể trồng ở đồng bằng đất sét pha cát (nơi trồng lúa không hiệu quả bằng trồng cây Rami) hoặc trồng trên bãi bồi nơi không bị ngập nước mùa mưa hoặc má bờ đê chắn lũ (vì rễ gai ken chặt chống sạt lở đê kè). Với những đặc tính sinh học của cây gai Rami đã được trình bày ở phần trên nên vùng trồng cần có độ ẩm và không úng ngập nước, không có sương giá, gió Lào (gió nóng khô). Cây gai là cây sống nhiều năm (7 – 20 năm) nên đưa cây gai vào trồng trên ruộng bậc thang địa hình đồi núi là thích hợp.
2.1. VÙNG ĐỒI NÚI VÀ ĐỒNG BẰNG
Vùng đồi núi nên chọn những chân đất ruộng bậc thang nằm bên dưới, thảm rừng rậm thường xanh phía trên, tốt nhất phía trên ruộng là các rừng lim, rừng luồng, nứa, giang. Ở vùng núi do địa thế, địa hình khác nhau nên khí hậu, thổ nhưỡng cũng thay đổi khá lớn, nên lựa chọn đất bằng phẳng ở chân núi, đất núi và sườn núi có độ dốc thấp để trồng gai. Ở vùng đồi núi nên chú ý hướng dốc và độ dốc của đất trồng gai. Hướng dốc về phía Nam hoặc Đông Nam là tốt nhất, có thể ngược hướng gió hướng về phía mặt trời, mùa xuân đất ấm lên nhanh, có lợi cho việc mọc mầm sinh trưởng cây gai, nhưng nhiệt độ giữa ngày và đêm có sự khác biệt lớn, cần chú ý phòng sương giá (nếu bị sương muối phần thân ngầm dưới đất rất dễ bị chết). Thông thường độ dốc quá lớn, đất và nước bị trôi mất khá nghiêm trọng, đất trở nên cằn cỗi, nên chọn đất có độ dốc trong vòng 10 độ, lượng đất màu bị trôi đi ít, tầng đất tương đối sâu, có lợi cho sự sinh trưởng của cây gai. Đất đồng bằng địa hình bằng phẳng, tầng đất dày tương đối màu mỡ, dễ cho việc trồng cây gai, nhưng điều kiện thông gió, ánh nắng chiếu sáng và thoát nước không bằng vùng đồi núi, bởi thế, cần lựa chọn đất có địa thế tương đối cao và vị trí nước ngầm tương đối thấp để trồng gai, đặc biệt là phải xử lý sâu rãnh thoát nước, tránh đọng nước, đề phòng làm chết cây hàng loạt. Bản chất của cây gai Rami là cây “hơi ưa bóng râm”, nhưng không thể sống và phát triển dưới tán rừng rậm. Vì vậy người ta có thể trồng cây gai xen với cây công nghiệp khác trên nương rẫy. Phương pháp trồng xen này là xen từng vạt với nhau.
2.2. THỔ NHƯỠNG (chọn đất)
Thông thường cây gai không quá kén chọn thổ nhưỡng nhưng tính chất vật lý và độ màu mỡ của thổ nhưỡng cũng có ảnh hưởng nhất định với sự trưởng thành sinh trưởng của cây gai. Trồng gai ở thổ nhưỡng quá dính, hệ rễ sinh trưởng sẽ chịu ảnh hưởng, nhất là khi đất bị trữ nước, gốc gai sinh trưởng chậm chạp, lá gai biến thành màu vàng, gốc gai dễ bị thoái hóa sớm. Đất có hàm lượng đá sỏi quá nhiều hoặc đất cát bị cằn, do kết cấu thổ nhưỡng kém, chất hữu cơ ít, độ đạm thấp, không thể giữ nước giữ đạm, hệ rễ không phát triển, sinh trưởng không tốt, ảnh hưởng đến sản lượng. Thông thường trồng gai ở thổ nhưỡng màu mỡ có lớp đất dày trên 75 cm là tốt nhất. Tóm lại, trong vấn đề chọn đất trồng gai nên căn cứ vào đặc điểm từng loại đất, chọn đất tương đối màu mỡ, tiêu nước tốt, chống gió, đón nắng mặt trời, độ dốc nhỏ hoặc đất rộng nối liền tập trung giữa núi hoặc giữa đồi để trồng cây gai là tốt nhất.
2.3. KỸ THUẬT LÀM ĐẤT TRỒNG CÂY GAI XANH
Cây gai là loại cây rễ sâu, thân và hệ rễ dưới đất rộng, nên chất lượng toàn bộ đất có ảnh hưởng trực tiếp tới sự sinh trưởng, trưởng thành và tuổi thọ của hạt gai, bởi thế nhất định phải đào sâu toàn bộ đất, làm tơi đất, cải thiện kết cấu đất, trồng dày thêm nhiều tầng. Với thổ nhưỡng quá dính, nên trộn thêm cát hoặc phân tro để cải thiện kết cấu thổ nhưỡng. Với đất đồi hoặc đất núi, thông thường trước khi trồng gai nên đào sâu khoảng 10 cm, xới tung các miếng đất, loại bỏ cỏ, làm thông kênh thoát nước, nối liền các thửa lại với nhau thành khoảng lớn, căn cứ vào địa hình địa thế mở rộng hợp lý, sau đó trồng gai. Khu đất bằng phẳng, đất thường màu mỡ, những vị trí nước ngầm khá cao, điều kiện thoát nước kém, nên sau khi làm tung các miếng đất lên, nên mở rộng rãnh thoát nước ở 4 phía, đề phòng nước tù.
2.4. TRỒNG CÂY RA ĐẤT SẢN XUẤT
2.4.1. Làm đất và lên luống
2.4.1.1. Làm đất
Đất trồng gai là đất bãi bồi phù sa có pH = 6 – 7 hoặc đất đồi núi ở những chân ruộng bậc thang, miền núi quen gọi là “đất một vụ” có pH = 5 – 5,5. Phần thân ngầm của cây gai Rami bò lan ra dưới mặt đất. Rễ từ gốc đầu tiên đâm ra (gọi là rễ cấp 1 cấp 2). Rễ từ thân ngầm đâm vào đất gọi là rễ cấp 3. Rễ cấp 1 có khi đâm sâu vào đất 1 – 2 m. Do vậy trước khi trồng cần xới xáo vài lần cho đất tơi xốp. Cây gai rất cần độ ẩm của đất nhưng bị chết nhanh chóng khi đất ngập nước. Do vậy ở trên ruộng bậc thang ở đồi núi hay ruộng ở bãi ven sông và đồng bằng cần bố trí có nơi cho nước vào và nơi tháo nước chảy đi, không để đất ngập nước.
2.4.1.2. Lên luống
Bề mặt luống rộng 50 – 60 cm, cao 10 – 15 cm, giữa hai luống cách nhau 40 – 50 cm làm lối đi và nơi cung cấp nước và bón phân sau khi trồng. Đối với ruộng bậc thang trên đất dốc thì luống nên bố trí theo đường đồng mức của ruộng bậc thang. Đối với đất đồng bằng ven bãi thì luống nên bố trí song song với dòng sông.
2.4.1.3. Cuốc hố
Sau khi lên luống thì tiến hành cuốc hố để chuẩn bị đưa cây vườn ươm ra trồng. Hố sâu 10 – 15 cm, rộng 20 x 20 cm. Hố cách hố là 25 cm. Hố được bón lót bằng 1/2 kg phân chuồng ( nếu có điều kiện) thì có trộn với 50g bào tử nấm từ 2 loại thuốc Biobauve 5DP và Vimetarzim 95DP để trừ ấu trùng cánh cứng, rệp sáp và mối ăn cây sống. Dùng cuốc xới trộn đều thuốc với phân bón lót và lấp một lớp đất mỏng trên mặt hố.
2.4.1.4. Chọn thời vụ trồng
Thời vụ trồng rất quan trọng đến tỷ lệ sống của cây gai con. Tùy từng địa phương nên chọn thời vụ trồng cây Rami vào đầu mùa mưa. Không nên trồng cây Rami vào mùa khô hạn. Đặc biệt ở Tây Thanh Hóa nên tránh trồng vào mùa khô nóng. Trong trường hợp đã trồng cây mà có gió nóng khô thổi qua thì cần bố trí máy tưới phun để tăng độ ẩm cho cây khỏi chết vì thiếu nước.
2.4.1.5. Kỹ thuật trồng cây
Khi cây con trong vườn ươm đã cao 15 – 20 cm thì có thể đem ra trồng trên những thửa đất đã chuẩn bị trước. Mỗi hố trồng 2 cây để phòng năm thứ 3 – năm thu hoạch có nhiều cây bị thối gốc phải loại bỏ bớt cây. Khi đã trồng xong cần lấp một lớp đất mỏng ngay miệng bầu ươm. Nếu bầu ươm là nilon không hủy thông thường bán trên thị trường thì cần dùng dao nhỏ rạch bỏ vỏ bầu trước khi trồng. Nếu dùng vỏ bầu là nilon tự hủy thì có thể đưa cả bầu xuống hố. Sau vài ba tháng khi rễ phát triển, vỏ bầu tự phân hủy, cho rễ phát triển ra ngoài vỏ bầu.
2.4.2. Bón phân cho cây gai khi cây đã bén rễ
Chất dinh dưỡng chủ yếu cây gai cần thiết là đạm, lân, kali, là cơ sở để cây gai sinh trưởng và phát triển.
Đạm có thể thúc đẩy gốc gai sinh trưởng, làm cho số lượng gốc gai và gốc có hiệu quả gia tăng, thân khỏe, lá nhiều; khi thiếu lá chuyển sang màu vàng, phân gốc ít, tầng sợi mỏng, dẫn đến giảm sản lượng; phân đạm quá nhiều khiến gốc gai dài, thân mềm yếu, trưởng thành muộn màng, tế bào sợi mỏng, dễ bị bệnh hại và đổ gục, ảnh hưởng tới sản lượng.
Lân có thể thúc đẩy phát triển sợi, rễ hệ sinh trưởng và hạt chín, có tác dụng tương đối với việc gia tăng sản lượng. Nếu thiếu lân, gốc gai trưởng thành chậm, sản lượng giảm thấp.
Kali có thể thúc đẩy quá trình tích lũy xenlulo và làm dầy màng tế bào, khiến thân càng dẻo dai, tăng khả năng kháng gió, kháng bệnh của cây; thiếu kali, gốc gai sinh trưởng không tốt, dễ bị đổ và nhiễm nấm bệnh. Thường vào giai đoạn giữa và cuối quá trình sinh trưởng của gai, rắc lên mặt lá tro đốt cỏ là một biện pháp quan trọng để tăng sản lượng.
Lượng dinh dưỡng hấp thụ được trong ba mùa mỗi năm của mỗi hecta gai là đạm urê: 220 kg, lân Văn Điển 41 kg, kali 129 kg. Theo thí nghiệm năm 2006 của Trung tâm Nghiên cứu Sản xuất Các chế phẩm sinh học (Liên hiệp Các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam), ngoại trừ các nguyên tố đạm, phốtpho, kali và canxi ra, các nguyên tố vi lượng như bo, mangan, kẽm, đồng, magiê cũng có tác dụng nhất định đối với sản lượng và chất lượng gai, nếu thiếu hoặc quá nhiều cũng khiến gai sinh trưởng kém.
Phân vi sinh dùng bón cho cây gai là phân được tạo từ than bùn (hàm lượng axit humic từ 1,5 – 2%) kết hợp với N.P.K (2.3.5). Vi sinh ở đây dùng nấm cộng sinh cho cây gai là Mycorrhiza. Loại nấm cố định đạm cho cây gai. Ngoài ra còn dùng các nấm phân giải xenlulo phân giải oxit phốtpho có trong đất. Trong phân vi sinh có một lượng vôi để trung hòa chất chua trong đất. Các vi lượng như bo, mangan, kẽm, đồng, magiê… cũng được đưa vào hỗn hợp phân vi sinh. Vì nhu cầu cần nước của cây gai rất lớn nên giúp cho đất giữ được nước cho gai cần đưa vào phân vi sinh tỷ lệ chất giữ nước (ví dụ MA500 của Trung Quốc hay các sản phẩm giữ nước của Viện Hóa học Việt Nam…).
2.4.3. Chăm sóc, bón phân, làm cỏ
Cây gai mới đưa ra trồng cây còn nhỏ, tầng ánh sáng còn lọt nhiều xuống đất nên cỏ có thể mọc nhanh chiếm bớt phần dinh dưỡng của cây. Vì vậy sau khi trồng chừng 10 – 20 ngày cần chú ý bỏ cỏ trên luống gai. Càng về sau lá gai phát triển che hết ánh sáng nên cỏ dưới gốc cây gai không phát triển được nữa.
2.4.4. Bón phân bổ sung, tăng cường độ ẩm cho đất
Sau mỗi vụ thu hoạch cây đã lấy đi từ đất nhiều chất dinh dưỡng. Vì vậy sau khi thu hoạch cần bón phân bổ sung. Phân bón có thể hòa vào nước rồi tưới đều trên bề mặt luống. Không nên cuốc xới nhiều vì rễ phụ và thân ngầm đã ken dày khắp mặt luống.
Kiểm soát những cây bị nấm cổ rễ phá hoại thì phải nhổ bỏ, xử lý thuốc thối cổ rễ ngay.
2.4.5. Phun thuốc kích thích tăng chiều cao của cây
Cây Gai xanh Rami là cây trồng để lấy tơ từ vỏ để phục vụ ngành dệt may. Vì vậy cây càng dài, càng cao thì sản lượng càng cao và xơ bông sau này càng dài. Vì vậy ngay khi ở vườn ươm hay khi mới trồng ra nơi sản xuất ta có thể phun một lượng kích thích tăng trưởng. Dùng Gibberellin pha vào cồn rồi cho tan vào nước lã với nồng độ10 ppm để phun vào đỉnh cây gai. Làm như vậy cây gai có thể tăng trưởng hơn 10 – 15%.
2.5. THU HOẠCH VÀ HIỆU QUẢ KINH TẾ
2.5.1. Thu hoạch
Thu hoạch gai lấy sợi cần cách xa thời gian ra hoa kết trái. Vì thời gian này chất dinh dưỡng tập trung vào hoa quả nên hàm lượng xenlulo trong sợi gai rất kém. Sau khi cây đưa từ vườn ươm ra trồng trên diện tích sản xuất chừng 40 ngày quan sát cây gai đã phát triển, thân đã mập và thẳng, quan sát gốc gai có biến đổi màu thì thu hoạch đợt 1. Sau 30 ngày nếu thời tiết thuận lợi thì có thể thu hoạch đợt 2, đợt 3, đợt 4 cũng tương tự như vậy. Thời gian sinh trưởng nhanh hay chậm là do chế độ nhiệt và độ ẩm của đất. Khi thấy thân và gốc cây hơi chuyển màu sang màu xanh nâu đậm là cây đã đủ trưởng thành và lượng vỏ đã dày tới ngưỡng thì có thể tiến hành thu hoạch. Thu hoạch có 2 phương thức:
Với diện tích nhỏ trồng hộ gia đình thì việc thu hoạch có thể tiến hành bằng cách bấm ngọn rồi tước vỏ đến gốc. Dùng kéo cắt vỏ ra khỏi thân, lá và lõi gai dập luôn xuống đất làm phân bón cho cây gai lứa sau.
Với diện tích trồng quy mô cả một cánh đồng thì việc thu hoạch bằng cách dùng dao sắc chặt sát gốc đồng loạt toàn bộ. Sau đó tiến hành tước vỏ ngay sau khi chặt. Việc tước vỏ gai như hiện nay là dùng bằng máy nhỏ lưu động trên ruộng,
Nạo vỏ sừng: Sản phẩm vỏ gai phục vụ ngành dệt may cần bỏ lớp vỏ sừng ngoài lớp vỏ lụa bên trong. Lớp vỏ sừng này loại bỏ rất dễ khi cây vừa mới chặt ra khỏi gốc. Để càng lâu lớp vỏ này càng bị dính két khó bóc. Bỏ lớp vỏ cứng này bằng dao nhỏ. Hoặc dùng một dụng cụ thủ công có thể làm ngay tại ruộng. Nếu sử dụng máy tróc vỏ thì vỏ sừng đã được loại bỏ.
Sản phẩm vỏ lụa được phơi khô trên dây phơi dưới ánh nắng mặt trời. Khi sản phẩm vỏ lụa đã khô có thể bó lại và nhập kho để chuyển sang bộ phận chế tạo sợi bông dệt vải.
Lá gai có thể phơi khô làm thực phẩm hoặc làm chất màu thực phẩm, cũng có thể dùng lá gai làm thức ăn nuôi cá, nuôi gia súc.
2.5.2. Hiệu quả kinh tế.
TT | HẠNG MỤC ĐẦU TƯ | ĐVT | SỐ LƯỢNG | ĐƠN GIÁ | THÀNH TIỀN |
(Đồng) | (Đồng) | ||||
A | Vụ Xuân | 18,130,000 | |||
I | Chi phí vật tư | 7,930,000 | |||
II | Chi phí nhân công | 10,200,000 | |||
B | Từ vụ 2 đến vụ 5 | 53,220,000 | |||
I | Chi phí vật tư | 15,720,000 | |||
II | Chi phí công nhân | 250 | 150,000 | 37,500,000 | |
C | Tổng chi phí 5 vụ | 71,350,000 | |||
D | Tổng lượng gai thu 5 vụ | Kg | 3000 | 47,000 | 141,000,000 |
E | Lợi nhuận/Ha | 69,650,000 |
(Kèm theo chi tiết tại phụ lục 01)
Phần 3: SÂU BỆNH HẠI CÂY GAI VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỪ
Lá gai là loại lá thịt không có độc nên là thức ăn cho rất nhiều loại côn trùng ăn lá. Mức độ hại của từng loại côn trùng ở những vùng khác nhau không giống nhau.
3.1. DỊCH HẠI CHÍNH.
3.1.1. Sâu hại chính:
Bộ Cánh phấn (Lepidoptera) có các loại sâu hại sau: | ||
Sâu róm đen |
Acraea issoria Hiibner |
|
Sâu bướm giáp vàng | Pareba vesta Fab. (hại nhiều nhất) | |
Sâu bướm giáp đỏ | Pyramcis indica Herb. (hại nhiều nhất) | |
Sâu khoang | Prodenia litura Fab. | |
Sâu cuốn lá | Sylepta dergrogade Fab. (hại nhiều nhất) | |
Bộ Cánh thẳng Orthoptera: | ||
Cào cào nhỏ | Atractomorpha chinensis Bol | |
Châu chấu nhỏ | Cantantops spiendens Thum | |
Bộ Cánh cứng Coleoptera: | ||
Sùng nâu đen ăn rễ cây gai | Anomala sp. (hại nhiều nhất) | |
Kim quy hai chấm ăn lá | Crysomella sp. | |
Bộ Cánh nửa Hemiptera: | ||
Rầy xanh đuôi đen | Nephotestix bipunetatus (Fab.) | |
Rầy bông | Empoasca biguttula Ish. | |
Bộ Cánh đều (mối) Isoptera: | ||
Mối đất | Odontotermes (5 loài) | |
Mối đất đầu to | Macrotermes (3 loài ) |
3.1.2. Bệnh hại thường gặp:
TT | Bệnh hại | Tác nhân | Đã quan sát trong tháng | Tỷ lệ bệnh(%) |
1 | Bệnh lở cổ rễ | Nấm: Fuxarium solani hoặc Rhidoctonia solani. | Thời kỳ cây con | |
2 | Bệnh thán thư đốm lá | Nấm: Colletotrichum gloeosporioides | Tháng 10 đến tháng 1 | 10 -60% |
3 | Bệnh cháy lá xoăn lá | Nấm: Curvularia eragrostidis | Tháng sáu đến tháng mười một | 10-18% |
4 | Bệnh do virus khảm vàng | virus | từ tháng 10 đến tháng 3 | 30 – 70 |
Triệu chứng một số bệnh hại chính:
+ Bệnh lở cổ rễ: do tập đoàn nấm gây nên như: nấm Fuxarium, Rhidoctonia… Ban đầu chỉ là 1 chấm nhỏ màu nâu hoặc đen trên phần cổ rễ, sau lan rộng theo chiều ngang làm cho phần vỏ vùng cổ rễ teo tóp lại dẫn đến phần thân trên héo chết.Làm giảm nghiêm trọng mật độ cây trên đv diện tích dẫn đến giảm năng suất đáng kể.
+ Bệnh thán thư: do nấm gây hại.
Bệnh thán thư thường tấn công vào phần xanh của cây gai. Trên lá vết bệnh đầu tiên có màu vàng nâu, khi bệnh nặng các vết liên kết làm lá khô từng mảng cháy khô, ngoài bìa lá nặng hơn. Trên thânvết bệnh lõm xuống, có gờ màu vàng nâu nổi lên.
Có thể làm giảm năng trung bình 20% khi tăng đến 55% sản lượng; Gai nhạy cảm với bệnh thay đổi theo giống cây trồng và mức độ nghiêm trọng có liên quan chặt chẽ đến các yếu tố khí hậu (phát triển mạnh nhất ở 20-30 ° C và A0 > 80%) và cũng bị ảnh hưởng bởi việc áp dụng các loại và lượng phân. Trong điều tra hiện tại, tỷ lệ mắc bệnh thán thư đã được quan sát thấy nghiêm trọng trong khoảng thời gian từ tháng 11 đến tháng 3. Sự lây nhiễm cao nhất trong khoảng thời gian từ tháng 10 đến tháng 1.
+ Đốm lá Cercospora: do nấm Cercospora boeheramie
Lá bị nhiễm bệnh có các đốm nâu từ tròn đến góc cạnh với các mép hẹp màu đỏ hoặc đỏ sẫm, có kích thước khác nhau từ các đầu nhọn cho đến Đường kính 5 cm với các vòng đồng tâm, nếu nhiễm nặng, các đốm có thể liên kết lại làm lá khô héo và chết đi, nhưng vẫn gắn bó với cây. Trên cây bị nhiễm bệnh nặng, có thể xảy ra hiện tượng rụng lá. điều kiện thích hợp ở nhiệt độ từ 20 – 280C, ở độ ẩm tương đối 90-100%.. Sự xuất hiện của đốm lá Cercospora được quan sát thấy trong Tháng 4 đến tháng 9 và thời tiết khắc nghiệt trong tháng Tháng 5 và tháng 6, nơi có lượng mưa thường xuyên kèm theo điều kiện thời tiết nóng ẩm.
+ Bệnh cháy lá xoăn lá: Do nẫm Curvularia eragrostidis
Các triệu chứng xuất hiện trên lá như gỉ, hơi đỏ vết bệnh màu nâu, không đều, các đốm hình vòng được bao bọc bởi mô diệp lục sau đó nhanh chóng mở rộng thành hình thuôn dài và dần dần liên kết lại và to ra xung quanh bề mặt lá. Các lá bị nhiễm bệnh hoàn toàn có lưới trong vòng 6-8 ngày sau khi nhiễm bệnh. Mưa thường xuyên kèm theo nhiệt độ ấm 20-30 0C là những yếu tố quan trọng nhất đối với phát triển của bệnh này.
+ Khảm gai: bệnh do virus gây hại. Do côn trùng trích hút truyền bệnh
Các triệu chứng giống như khảm được đặc trưng bởi các mảng đan xen giữa màu bình thường và màu xanh lá cây nhạt hoặc hơi vàng màu sắc trên lá của cây bị nhiễm bệnh và toàn bộ mạng lưới gân lá bị vàng lướt. Trong trường hợp nhiễm trùng nặng, các lá non chuyển sang vàng, giảm kích thước và cây rất còi cọc. Trong một cánh đồng, hầu hết các cây có thể bị bệnh và sự lây nhiễm có thể bắt đầu ở bất kỳ giai đoạn nào phát triển của cây. Virus không làm chết cây, nhưng làm giảm chất lượng và sản lượng của cây gai, đặc biệt khi cây bị nhiễm bệnh khi còn non. Nhiễm trùng cao nhất trong khoảng thời gian từ tháng 9 đến tháng 12, và tỷ lệ mắc bệnh cao hơn ở lần thu hoạch thứ nhất và thứ hai hơn ở lần thu hoạch thứ ba. Nhiệt độ từ 15 – 26 0C là thuận lợi cho lây lan bệnh, nhưng các triệu chứng bệnh biến mất khi nhiệt độ tăng lên đến 28 0C hoặc hơn.
3.2. BIỆN PHÁP QUẢN LÝ.
Cây gai là cây rất dễ bị sâu bệnh gây hại. Do vậy để đảm bảo an toàn cho cây gai thì người trồng gai phải thực hiện tổng hợp các biện pháp và chuần bị trước thuốc sâu sinh học, thuốc trừ nấm bệnh và các thiết bị phòng trừ sâu bệnh hại.
3.2.1. Sử dụng biện pháp canh tác: (như đã trình bày ở phần 1)
Đặc biệt cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
+ Sử lý đất bằng cách bón các chế phẩm nấm đối kháng như: nấm trichoderma … Trước trồng và sâu thu hoạch mỗi lứa, sẽ giảm thiểu tối đa sụ gây hại của nấm bệnh hại gốc rễ của cây gai.
+ Cần phải chăm sóc, bón phân, làm cỏ kịp thời để gai chống chịu tốt với dịch hại. Cây gai mới đưa ra trồng cây còn nhỏ, tầng ánh sáng còn lọt nhiều xuống đất nên cỏ có thể mọc nhanh chiếm bớt phần dinh dưỡng của cây. Vì vậy sau khi trồng chừng 10-20 ngày cần chú ý làm cỏ trên luống gai. Càng về sau lá gai phát triển che hết ánh sáng nên cỏ dưới gốc cây gai không phát triển được nữa, đồng thời nếu đủ phân, gai sẽ phát tiển nhanh, cứng cây khả năng chống chịu sâu bệnh tốt hơn.
Bón phân bổ sung, tăng cường độ ẩm cho đất. Sau mỗi vụ thu hoạch cây đã lấy đi từ đất nhiều chất dinh dưỡng. Vì vậy sau khi thu hoạch cần bón phân bổ sung. Phân bón có thể hòa vào nước rồi tưới đều trên bề mặt luống. Không nên cuốc xới nhiều vì rễ phụ và thân ngầm đã ken dày khắp mặt luống.
+ Kiểm soát những cây bị nấm cổ rễ phá hoại thì phải nhổ bỏ, xử lý thuốc thối cổ rễ ngay cho ruộng gai bị bệnh.
3.2.2. Phun thuốc kích thích tăng chiều cao của cây, giúp nhanh được thu hoạch, giảm tác hại của dịch bệnh.
Cây Gai xanh Rami là cây trồng để lấy tơ từ vỏ để phục vụ ngành dệt may. Vì vậy cây càng dài, càng cao thì sản lượng càng cao và xơ bông sau này càng dài. Vì vậy ngay khi ở vườn ươm hay khi mới trồng ra nơi sản xuất ta có thể phun một lượng kích thích tăng trưởng. Dùng Gibberellin pha vào cồn rồi cho tan vào nước lã với nồng độ 10 ppm (tức là 10 phần triệu, hoặc 1ml pha cho 100 lít nước) để phun vào đỉnh cây gai. Làm như vậy cây gai có thể tăng trưởng hơn 10-15% và lứa nhanh được thu hoạch sẽ giảm lớn sự phá hại của sâu bệnh.
Có thể bạn chưa biết:
3.2.3. Chuẩn bị các loại thuốc BVTV đặc phun trừ.
Với côn trùng ăn rễ hoặc có giai đoạn nằm nghỉ đông dưới gốc cây có thể trừ bằng thuốc Biobauve 5DP (thuốc do Trung tâm Nghiên cứu Sản xuất Các chế phẩm sinh học sản xuất); thuốc có nguồn gốc sinh học như thuốc có hoạt chất Abamechtin, Emamechtin benzoat… để diệt trừ các đối tượng ăn lá, chích hút.
Với các loại bệnh hại như bệnh: bệnh lở cổ rễ, bệnh thán thư, bệnh cháy lá soăn lá, bệnh đốm lá. Sử dụng các loại thuốc có hoạt chất Metalaxyl, Propineb (thuốc Antracol), Cabendazim,…; bệnh khảm virus thì chuẩn bị các loại thuốc trừ nấm, trừ côn trùng môi giới thích hợp.
Lưu ý: để sử dụng thuốc có hiệu quả và giảm thiểu ô nhiễm môi trường, thì bà con Nông dân cần sử dụng thuốc bảo vệ thực vật theo nguyên tắc 4 đúng: Đúng thuốc, đúng lúc, đúng nồng độ, liều lượng và đúng kỹ thuật. Thu gom bao bì thuốc BVTV sau sử dụng vào đúng nơi quy định.
Phần 4: CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ TRỒNG GAI XANH
4.1. Chính sách hỗ trợ của UBND tỉnh Thanh Hóa
Thực hiện theo Nghị quyết số 385/2021/NQ-HĐND, của Hội đồng nhân dân tỉnh Thanh Hóa, ngày 26/4/2021, về việc “Ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển cây Gai xanh nguyên liệu trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, giai đoạn 2021 – 2023.
– Hỗ trợ chi phí chuyển đổi trồng cây lâu năm kém hiệu quả sang trồng cây gai xanh nguyên liệu (phải đảm bảo từ 5 ha trở lên đối với doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, và từ 0,5 ha trở lên đối với hộ gia đình, cá nhân.
– Hỗ trợ chi phí mua giống cây Gai xanh (đối với doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác có diện tích trồng cây gai xanh từ 0,5 ha trở lên; Hộ gia đình, cá nhân phải trồng gai từ 0,1 ha trở lên): Hỗ trợ một lần với mức 50% chi phí mua giống, nhưng tối đa không quá 10 triệu đồng/ha.
– Hỗ trợ mua máy tước vỏ gai xanh (đối với doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác trồng cây gai xanh từ 5-10 ha; hộ gia đình, cá nhân phải trồng cây gai xanh từ 1 ha-5 ha được hỗ trợ 01 máy): 5.000.000 / máy
4.2. Chính sách hỗ trợ của UBND huyện Cẩm Thủy
Thực hiện theo Nghị quyết số 19/NQ-HĐND, của Hội đồng nhân dân huyện Cẩm Thủy, về các mức mức hỗ trợ khuyến khích phát triển Kinh tế – Xã hội trên địa bàn huyện năm 2021.
– 3 triệu đồng/ha cây gai xanh được trồng mới.
– 500 nghìn đồng/Ban chỉ đạo xã/ha cây gai xanh trồng mới.
– 300 nghìn đồng/Ban chỉ đạo huyện/ha cây gai xanh trồng mới.
4.3. Chính sách hỗ trợ của Công ty An Phước.
Hỗ trợ bên công ty An Phước
(Đầu tư ứng trước trồng mới trả chậm 18 tháng không tính lãi)
TT | Nội dung | ĐVT | Đơn giá | Số lượng/ha | Hỗ trợ |
1 | Giống | Cây | 450 | 33.300 | 15.000.000 |
2 | Máy tuất vỏ | Cái | 13.000.000 | 1 | 13.000.000 |
3 | Làm đất | Công | 5.000.000 | 1 | 5.000.000 |
4 | Vôi bột | Tấn | 2.200.000 | 1,5 | 3.300.000 |
5 | Phân vi sinh Azoto | Tấn | 6.500.000 | 1 | 6.500.000 |
6 | Phân vi sinh Tritro | Kg | 50.000 | 25 | 1.250.000 |
7 | Phân N-P-K | Kg | 9.200 | 4000 | 3.680.000 |
8 | Công bón vôi, phân chuồng | Công | 150.000 | 35 | 5.250.000 |
Tổng | 52,980,000 |
Phụ lục 1: ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KINH TẾ CỦA CÂY GAI XANH
TT | HẠNG MỤC ĐẦU TƯ | ĐVT | SỐ LƯỢNG | ĐƠN GIÁ | THÀNH TIỀN |
(Đồng) | (Đồng) | ||||
A | Vụ Xuân | 18,130,000 | |||
I | Chi phí vật tư | 7,930,000 | |||
1 | Bón lót phân HCVS | Kg | 1000 | 3.5 | 3,500,000 |
2 | Đạm Ure | Kg | 300 | 8 | 2,400,000 |
3 | Kali | Kg | 180 | 8.5 | 1,530,000 |
4 | Thuốc BVTV | 500,000 | |||
II | Chi phí nhân công | 10,200,000 | |||
1 | Công bón phân | Công | 8 | 150,000 | 1,200,000 |
2 | Công làm cỏ | Công | 10 | 150,000 | 1,500,000 |
3 | Công thu hoạch, sơ chế | Công | 50 | 150,000 | 7,500,000 |
B | Từ vụ 2 đến vụ 5 | 53,220,000 | |||
I | Chi phí vật tư | 15,720,000 | |||
1 | Đạm Ure | Kg | 1,200 | 8,000 | 9,600,000 |
2 | Kali | Kg | 720 | 8,500 | 6,120,000 |
II | Chi phí công nhân | 250 | 150,000 | 37,500,000 | |
C | Tổng chi phí 5 vụ | 71,350,000 | |||
D | Tổng lượng gai thu 5 vụ | Kg | 3000 | 47,000 | 141,000,000 |
E | Lợi nhuận/Ha | 69,650,000 |