Nội dung bài viết
Kỹ thuật canh tác lúa trên nền đất nuôi tôm sú gia tăng hiệu quả kinh tế
1. Một số vấn đề cần lưu ý khi canh tác lúa trên đất nuôi tôm sú
Đất canh tác lúa bị nhiễm mặn theo mùa, bắt đầu từ cuối tháng 12 đến tháng 7 năm sau với độ mặn biến động từ 2‰ đến 10‰. Tùy thuộc vào lượng mưa hàng năm mà thời gian nhiễm mặn và độ mặn sẽ khác nhau ở từng vùng. Nước ngọt phù hợp để lúa phát triển trong khoảng thời gian từ trung tuần tháng 8 đến tháng 12. Do hạ thấp nền để xây dựng bờ bao nên khả năng lúa bị nhiễm phèn và mặn tăng cao ở khu vực gần chân bờ.
Tầng canh tác tích lũy nhiều chất hữu cơ chưa phân hủy sau mỗi đợt nuôi tôm (do thức ăn dư, chất thải của tôm, rong rêu và xác bã thực vật khác, …). Các chất này khi khoáng hóa sẽ là nguồn dinh dưỡng rất tốt cho lúa, nhất là giai đoạn 20 ngày đầu sau sạ. Trồng lúa trong vuông tôm giúp cải thiện môi trường đất từ đó giảm thiểu dịch bệnh trong quá trình nuôi tôm (do các chất hữu cơ được khoáng hóa và cây lúa hấp thu dần trong quá trình canh tác).
Sản xuất lúa có giá thành thấp (do giảm được các khoản chi phí: không cần cày lật, giảm lượng phân bón và hạn chế sử dụng thuốc BVTV,…) Có thể kết hợp trồng lúa với nuôi cá trong vuông và trồng một số loại cây màu ngắn ngày trong mùa mưa trên bờ bao để tăng thêm thu nhập. Đây là mô hình sản xuất bền vững ở vùng nuôi tôm sú.
2. Kỹ thuật canh tác lúa trên đất nuôi tôm
2.1. Cơ sở xác định thời vụ gieo sạ
Lúc gieo sạ độ mặn nước phải thấp hơn 0,05‰ (có thể dùng dụng cụ đo độ mặn hoặc nếm thử nước thấy có vị ngọt) và tránh thời điểm triều cường. Giai đoạn lúa trổ vào chắc không gặp mưa và cũng không bị xâm nhập mặn. Theo dõi thông tin của BVTV địa phương để xuống giống né rầy (dự tính sao cho khi lúa mọc được 1-2 lá không còn rầy nâu di trú xuất hiện trên đồng)
Xem thêm: Một số đặc điểm sinh học và kỹ thuật chọn, thả giống cá Song
Gieo sạ tập trung theo từng khu vực liền kề nhau có quy mô diện tích vài chục ha trở lên.
2.2. Khuyến cáo lịch thời vụ như sau
Đối với giống nhóm B (thời gian sinh trưởng tương đương 120 ngày): Gieo sạ từ 10/8 đến 30/8 dương lịch (dl). Các giống lúa mùa có thể gieo mạ từ 20/7 đến 30/7 dl. Đối với giống nhóm A1 (thời gian sinh trưởng tương đương 100 ngày): Gieo sạ từ 01/9 – 20/9 dl.
2.3. Chọn giống
Nhóm lúa mùa: Hai Hoành, Một bụi đỏ, Tài nguyên Nhóm B: ST-5, ST-10, MTL 119, … Nhóm A1: MTL 547, AS 996, OM 6976, OM 7347, OM 5629, OM 5464, OM 5981, …
Lưu ý: những vùng có lượng mưa hàng năm ít, nước mặn xâm nhập sớm nên chọn những giống lúa có thời gian sinh trưởng ngắn.
2.4. Chuẩn bị đất
Sau khi kết thúc vụ nuôi tôm (tháng 8) cần điều chỉnh cống cho nước ra vào thường xuyên trên ruộng nhiều lần, dùng nước mưa, nước ngọt trên sông để rửa mặn. Dọn sạch rong tảo trên ruộng, cỏ dại xung quanh bờ. Khi nước đã ngọt, phơi đáy vuông cho khô mặt ruộng (xuất hiện vết rạn nứt dấu chân chim) thì tiến hành xới một lượt để tạo độ thông thoáng cho đất và diệt cỏ lông heo để lúa dễ bám rễ vào đất. Xung quanh ruộng, sát phần chân bờ cần đào rãnh (rộng 3 tấc, sâu 1 tấc) đắp thành bờ nhỏ ngăn bên trong ruộng để ngăn phèn và mặn từ trong bờ rửa trôi vào ruộng lúa.
Đánh các rãnh dọc theo chiều nghiêng của đáy ao (rộng 3 tấc, sâu 1 tấc) để tháo rửa phèn mặn. Khoảng cách các rãnh cách nhau từ 15 – 20 mét. Mặt ruộng có độ nghiêng lớn cần đắp bờ phân chia lô theo hướng vuông góc với chiều nghiêng để điều chỉnh mực nước cho lúa phát triển đồng đều sau này. Bón lót phân lân cải tạo đất hoặc lân Indo Guano (200-300kg/ha) để hạ độc phèn giúp lúa phát triển tốt ngay từ thời kỳ đầu.
2.5. Kỹ thuật ngâm ủ hạt giống
Đối với hạt giống mới thu hoạch trong vụ xuân hè hay hè thu cần phơi hạt giống lại từ 1 đến 2 tiếng đồng hồ trước khi ngâm ủ để tăng khả năng hút nước và sức nẩy mầm. Lúa giống ngâm trong nước sạch từ 36-48 giờ (quan sát thấy mầm lúa có màu trắng đục hơi u lên ở mép hạt thì vớt ra rửa sạch hết mùi chua) trước khi đem ủ. Để ủ giống tốt nhất là dùng bao bố, nếu sử dụng bao nilon phải chọn loại bao có chỉ dệt thưa dễ thoát nước. Lượng lúa giống đổ vào khoảng 3/4 khả năng chứa của bao. Sau đó cột bao sát phần miệng để chừa trống đoạn ¼ bao (không cột chặt sát mặt lúa) Bao lúa giống khi ủ nên đặt nằm, phủ lên một lớp rơm hay đệm ẩm và ủ trong 24 giờ. Sau đó kiểm tra nhiệt độ (đặt tay vào giữa bao hạt giống có cảm giác ấm là thích hợp, nếu có cảm giác nóng phải làm giảm nhiệt, bằng cách tưới xả nước sạch vào bao giống cho đến khi nước chảy ra dưới đáy bao nguội thì dừng). Sau đó, trải lúa giống ra chỗ khô mát với bề dày lớp lúa khoảng 2 tấc (dưới lót lưới, trên mặt đậy bằng bao hay đệm ẩm), tiếp tục ủ thêm từ 12 – 24 giờ nữa. Kiểm tra trước khi gieo sạ: nếu sạ lan cần ủ đến khi rễ mầm mọc dài khoảng 2-3mm, sạ hàng cần rễ mầm ngắn khoảng 1-2mm. Để hạt giống nẩy mầm tốt, khuyến cáo một số kỹ thuật xử lý giống như sau:
Xử lý hạt giống với dung dịch nước muối 15%: có tác dụng loại bỏ một số mầm bệnh trên vỏ trấu và các hạt lép lửng, hạt cỏ lẫn trong giống,…
Xem thêm: Một số đặc điểm sinh học và kỹ thuật chọn, thả giống cá Song
Cách làm: Lúa được ngâm bình thường với nước sạch trong 24 giờ rồi vớt ra. Pha dung dịch nước muối 15% (15 kg muối pha trong 100 lít nước), khuấy đều cho tan hết muối. Lượng nước muối cần pha sao cho đủ ngập lượng hạt giống cần dùng khoảng 20cm để dễ vớt bỏ các hạt lép lửng và hạt cỏ (để ngâm 100kg giống cần pha 100 lít dung dịch nước muối). Tiếp tục ngâm lúa giống trong dung dịch nước muối từ 10-15 phút, sau đó vớt lúa giống đem rửa lại với nước sạch nhiều lần cho hết muối rồi mới đem ủ (như hướng dẫn ở phần trên).
Xử lý hạt giống với dung dịch axit nitric loãng (HNO3): để phá miên trạng hạt.
Cách làm: Pha dung dịch axit (lượng axit sử dụng theo hướng dẫn ghi trên nhãn): trước tiên cho nước sạch vào lu hoặc bể chứa, sau đó mới đổ axit vào (chú ý: không được làm ngược lại), kế đến dùng que khuấy đều dung dịch (để ngâm 100 kg lúa giống cần pha 100 lít dung dịch axit đã pha loãng). Kế đến đổ lúa giống (khô) vào, vớt bỏ hạt cỏ và hạt lép lửng nổi trên bề mặt rồi tiếp tục ngâm hạt giống từ 24-36 giờ (khoảng 3-4 giờ, dùng que khuấy đảo đều hạt giống 1 lần), sau đó vớt ra dùng nước sạch xả hết mùi chua, để ráo rồi đem ủ 36-48 giờ. Kiểm tra trước khi gieo sạ như hướng dẫn trên.
Có thể xử lý hạt giống với một số nông dược khác để phòng trừ bù lạch và rầy nâu di trú truyền bệnh giai đoạn mạ như: Cruiser plus, Gaucho, Regent đỏ,… hay phòng trừ bệnh lúa von bằng thuốc Benomyl, Carbendazim,…
Cách làm: (Theo hướng dẫn chi tiết trên nhãn mác của từng loại).
2.6. Phương pháp gieo sạ:
Lúa sạ: (khuyến cáo sạ thưa hoặc dùng dụng cụ sạ hàng để gieo sạ)
Đối với nhóm giống A1 lượng giống gieo sạ khoảng 100 – 120 kg/ha.
Đối với nhóm giống A2 , B lượng giống gieo sạ khoảng 80-100 kg/ha
Lúa cấy: (khuyến cáo đối với các giống lúa mùa địa phương)
Làm nương mạ: diện tích gieo mạ bằng 1/10 diện tích cần cấy. Lượng giống gieo mạ: 45-50 kg/1.000m2 , tuổi mạ cấy từ 30-35 ngày sau khi gieo. Có thể gieo mạ trên bờ bao xung quanh bằng phương pháp gieo mạ khô, đậy hạt giống bằng tro trấu ướt.
Lúa cấy: cây cách cây 3 tấc, cấy 3-4 tép/buội, không nên cấy quá sâu (3cm là vừa) sau 3-5 ngày nên kiểm tra ruộng, cấy dặm lại những chỗ thiếu. Một số điểm cần lưu ý sau khi sạ: Sau khi sạ được 2 đêm, nếu thấy trời sắp có mưa thì sả nước vào ruộng cho ngập hạt lúa, sau đó nếu trời tốt trở lại thì rút nước ra cho thật khô. Khi thấy lúa mọc đều, cho nước vào ngập khoảng 2 – 5 cm, không cho ngập quá sâu sẽ làm cho cây lúa ốm yếu dễ bị sâu bệnh tấn công, nếu thấy sâu xuất hiện cho nước vô ngập vài giờ rồi sả bỏ. Đến 7 ngày sau khi sạ phun Super humic hoặc K-humat để giúp cho cây lúa sinh trưởng khoẻ và chống chịu tốt với các điều kiện bên ngoài. 20 ngày sau khi sạ nhổ băng theo hướng Bắc – Nam, rộng từ 4 – 6 mét, giữa 2 băng rộng 30cm; để tạo điều kiện cho ruộng được thông thoáng.
2.7. Điều chỉnh nước
Trước khi sạ 1 ngày nên tháo khô nước, đối với lúa cấy chỉ để nước trên ruộng khoảng 5cm là vừa. Sau khi sạ nếu thấy có khả năng mưa to, nên đưa nước vào ruộng ngập hạt lúa khoảng 2-3cm để hạt giống không bị vùi trong lớp bùn trên mặt ruộng. Khi trời nắng tốt trở lại thì tiếp tục tháo khô nước ruộng giúp lúa mọc đều. Sau khi lúa đã mọc đều (5 ngày sau khi sạ), cho nước vào và giữ mực nước trên ruộng ở mức 2-3cm. Sau khi sạ, cấy 30 ngày, giữ mực nước sâu khoảng 7-10cm so với mặt ruộng. Đối với những ruộng có nuôi cá có thể nâng lên khoảng 15cm nhưng không ngập tai lá lúa cuối cùng vì sẽ làm cho cây lúa bị suy yếu và đẻ nhánh kém. Khi lúa nẩy chồi giao tán (cuối kỳ đẻ nhánh) rút cạn nước ruộng 3-5 ngày (mặt ruộng nứt dấu chân chim) để các khí độc trong đất (NH3, H2S, CH4,…) được thoát ra giúp tăng khả năng hoạt động của các vi sinh vật có lợi trong đất, đồng thời kích thích rễ ăn sâu vào đất hấp thu nhiều dinh dưỡng, hạn chế đổ ngã về sau. Sau đó cho nước vào để bón phân nuôi đòng.
2.8. Bón phân
Trước khi gieo sạ | Giai đoạn cây con | Giai đoạn tăng trưởng | Giai đoạn đòng | Giai đoạn trước trổ |
Bón lót | Không bón | Bón thúc | Bón nuôi đòng | Bón thúc đòng |
Từ khi sạ đến 25 ngày | Khoảng 25 – 30 ngày sau khi sạ | Khoảng 60 ngày sau khi sạ | Khoảng 80 – 85 ngày sau khi sạ |
Trên đất nuôi tôm do lớp bùn non rất tốt đủ sức nuôi cấy lúa trong tháng đầu, nếu bón phân sớm, nhất là phân đạm rất dễ bị bệnh đạo ôn (cháy lá) tấn công, nhưng lớp bùn sẽ bị lúa hút hết sau 1 tháng, nên các lần bón sau rất quan trọng.
Chú Ý Nhẹ Đầu Nặng Cuối và khi bón phân cần cân nhắc đến điều kiện đất đai, thời tiết và tình hình của cây lúa mà điều chỉnh cho phù hợp.
Bón lót: là lần bón quan trọng giúp cho phân huỷ nhanh chất hữu cơ dưới đáy ao tạo nguồn dinh dưỡng cung cấp cho cây lúa trong giai đoạn đầu, nên bón một trong các loại phân có tác dụng cải tạo đất như phân Con cò cải tạo đất hay phân lân Indo để rửa phèn, giải độc và nâng cao độ phì cho đất. Bón khoảng 25 kg phân cải tạo đất cho mỗi công tầm 3 mét vào lúc trước khi sạ từ 2 – 5 ngày.
Bón thúc: là lần bón chủ yếu, để điều chỉnh độ đồng đều và gia tăng số chồi hữu hiệu. Cần bón đầy đủ và cân đối giữa NPK để giúp cho cây lúa phát triển khỏe và tăng cường tính chống chịu với các điều kiện bất lợi. Chú ý từ sau khi sạ cho đến lúa được gần 1 tháng tuổi không bón gì cả đến khi thấy lá lúa bắt đầu dựng đứng và trở màu vàng thì bón 10 kg NPK 20-20-15 và 5 kg Urea, tương ứng vào khoảng 25 – 30 ngày sau khi sạ.
Bón nuôi đòng: trước khi lúa vào giai đoạn tượng đòng cần tạo điều kiện cho cây lúa chuyển sang màu vàng, sau đó sẽ bón nuôi đòng. Đây là lần bón giúp cho cây lúa phát triển đòng nhanh, đồng đều và tập trung. Cần bón cân đối đa trung vi lượng, nhất giữa đạm và kali. Trước khi bón nên rút khô ruộng vào lúc 50 ngày sau khi sạ trong 7 ngày để lúa ra rễ mới, ăn sâu và chống đổ ngã; 57 ngày sau khi sạ cho nước vào và đến khoảng 60 ngày sau khi sạ bón nuôi đòng theo màu sắc của lúa cho thích hợp trên mỗi công tầm 3 mét như sau:
Màu vàng: 10kg NPK (20-20-15) + 5kg Urea + 3kg Nitratbor.
Xanh nhạt: 10kg NPK(20-20-15) + 3kg Urea + 3kg Nitratbor.
Xanh đậm: 7kg NPK (20-20-15) + 3kg Nitratbor.
Bón thúc đòng: là lần bón cần thiết để bổ sung thêm dinh dưỡng giúp cho cây lúa trổ thoát, thụ phấn tốt, vào hạt nhanh và nuôi các chồi con trổ bông đầy đủ. Cần chú ý bón cho cân đối, nên sử dụng các loại phân hỗn hợp NPK và bón vào lúc lúa được khoảng 80 – 85 ngày tuổi cho mỗi công tầm 3 mét theo màu lá lúa như sau:
Màu vàng: 10 kg NPK (16-16-8).
Xanh nhạt: 7 kg NPK (16-16-8).
Xanh đậm: không bón.
Bón nuôi hạt: là lần bón bổ sung giúp cho hạt lúa được mẩy, sáng và chắc hạt để nâng cao năng suất và chất lượng. Cần chú ý thời tiết và tình trạng sinh trưởng của lúa, nhất là màu lá lúa để quyết định xem cần bón hay không và chỉ bón khi thấy thật sự cần thiết, bón sau khi lúa trổ từ 5 – 7 ngày cho mỗi công tầm 3 mét theo màu lá lúa như sau:
Màu vàng: 10 kg NPK 16-16-8 hoặc 5 kg Urea + 5 kg Kali;
Màu xanh nhạt: 5 kg NPK 16-16-8 hoặc 3 kg Urea + 3 kg Kali;
2.8.1. Đối với giống lúa ST 5
Bón lót phân lân (trước khi xới, bừa, trục): 200-250kg/ha (có thể sử dụng một trong các loại phân lân: lân cải tạo đất, lân Indo Guano,…)
Bón thúc: (Không nên bón phân có chứa đạm trong 20 ngày đầu sau khi sạ). Quan sát đồng ruộng, khi thấy lá lúa dựng đứng chuyển sang màu xanh hơi vàng đọt chuối (khoảng 22-25 ngày sau sạ) tiến hành tháo nước phơi đất khoảng 2 ngày, sau đó cho nước vào và hôm sau tiến hành bón phân:
NPK (20-20-15): 80 kg
Urê: 40 kg
(Sau khi bón từ 3-5 ngày, nếu thấy chỗ nào còn màu xanh vàng nên bón bổ sung thêm phân urê vào, gọi là bón “vá áo” để ruộng lúa phát triển đồng đều)
Bón nuôi đòng: kiểm tra nếu thấy lúa có đòng đòng (tim đèn) và quan sát khi có 20-25% diện tích ruộng có màu xanh vàng thì bón nuôi đòng:
NPK (20-20-15) : 50 kg
Urê : 25 kg Nitratbor : 25 kg
(Nếu lúa còn màu xanh thì không cần bón phân urê) Bón thúc đòng (khoảng 80-85 ngày sau sạ)
Khi đòng đòng sắp trổ:
Nếu lúa màu xanh đậm: không cần bón phân.
Lúa màu xanh nhạt: 50kg phân NPK(16-16-8)
Bón nuôi hạt: Sau khi lúa đã trổ đều xem màu lá để quyết định bổ sung phân bón trong thời điểm này.
Nếu lúa màu xanh đậm: không cần bón phân.
Nếu lúa màu xanh nhạt: 25kg urê và 25kg kali
(Có thể thay thế phân rải gốc bằng một số loại phân bón qua lá như: K-humate, Fainal-K,…)
2.8.2. Đối với lúa cao sản ngắn ngày (95-105 ngày)
Bón lót: (tương tự như đối với giống lúa ST5)
Bón thúc 1: (10 ngày sau khi sạ) tháo nước phơi đất khoảng 2 ngày rồi cho nước vào, hôm sau bón phân:
NPK (20-20-15): 30 kg
Urê: 30 kg
Bón thúc 2: (20 ngày sau khi sạ) tháo nước phơi đất khoảng 2 ngày rồi cho nước vào, hôm sau bón phân:
NPK (20-20-15) : 50 kg
Urê: 30 kg
Bón nuôi đòng: (kiểm tra đòng đòng như hướng dẫn ở phần canh tác lúa ST5):
Phân urê: 25 kg
Phân Nitratbor: 25 kg Phân
Kali clorua: 50 kg
Lưu ý trước mỗi đợt bón phân: Quan sát màu sắc của lá lúa vàng hay xanh để tăng hoặc giảm lượng phân urê. Quan sát số chồi, độ cứng thân và rễ lúa xấu hay tốt để tăng hoặc giảm lượng phân NPK. Giữa các kỳ bón phân rải gốc, có thể bón bổ sung thêm bằng các loại phân bón qua lá có chứa nhiều dinh dưỡng lân, kali và các yếu tố trung vi lượng khác (như: Hydrophos, K-Humate, Wehg, Penac P, Boom fl ower-n, Vipac 88, Super humate,…)
Xem thêm: Kỹ thuật nuôi tôm sú mang lại hiệu quả kinh tế cao
Một số vấn đề trong chăm sóc lúa:
Trước khi bón thúc, bón nuôi đòng, trước và sau khi trổ 7 ngày phun K – humat với nồng độ 50cc/bình 16 lít, mỗi công phun 2 bình. Rút nước trước khi bón thúc và bón nuôi đòng từ 3 – 7 ngày là một biện pháp nâng cao chất lượng nước trong ruộng trước khi bón phân để nâng cao hiệu suất sử dụng phân. Một biện pháp quan trọng cần được áp dụng là rút nước vào giai đoạn đẻ nhánh xong, rút đến khi nứt chân chim càng tốt nhằm: Giúp cho cây lúa phát triển bộ rễ tốt và ăn sâu hơn để hút nhiều dinh dưỡng và cây lúa cứng cáp sẽ ít đổ ngã vào giai đoạn sau; Giảm chồi vô hiệu và cây lúa sẽ nuôi chồi hữu hiệu tốt hơn; Giảm lá ủ ở giai đoạn sau, ruộng sẽ thông thoáng ít bị sâu bệnh; Tiêu các chất độc đã sinh ra trong môi trường yếm khí do đất bị ngập nước lâu ngày.
2.9. Phòng trừ sâu bệnh
2.9.1. Nguyên tắc chung
Cần áp dụng đồng bộ các biện pháp kỹ thuật theo nguyên tắc quản lý dịch hại tổng hợp (IPM). Khi dịch hại tăng cao đến “ngưỡng phòng trừ” sẽ dùng thuốc BVTV để phòng trị. Tuân thủ nguyên tắc 4 đúng khi sử dụng thuốc BVTV:“đúng loại, đúng lúc, đúng liều và đúng cách”.
2.9.2. Biện pháp phòng trừ dịch hại tổng hợp
Sử dụng giống có tính kháng cao. Xử lý hạt giống trước khi sạ để bảo vệ mầm lúa bằng một trong các loại: nước muối 15%, Cruiser plus, Gaucho,… Bón lót phân cải tạo đất (có chứa lân và vôi) để hạn chế ngộ độc phèn. Sạ thưa, sạ hàng theo định mức khuyến cáo cho từng nhóm giống.Không bón thừa phân đạm và hạn chế bón phân có chứa đạm quá sớm. Khi rầy nâu xuất hiện lúc lúa còn nhỏ, cho nước vào ngập đọt lúa trong vài giờ rồi tháo nước ra.
Khi lúa đã lớn đưa nước dâng cao đến gần cổ lá để che chắn rầy khi có các đợt rầy nâu di trú. Thả cá nuôi kết hợp trong ruộng lúa để diệt sâu rầy (dưỡng cá con trong ao 45 ngày, sau khi sạ 30 ngày cho cá vào ruộng lúa) hoặc thả vịt con vào ruộng ăn sâu rầy. Khi lúa phát triển giao tán, sử dụng 1 số chế phẩm sinh học phun lên ruộng để phòng trừ sâu rầy bộc phát giai đoạn cuối (Bemetent, Ometar,…). Đối với bệnh hại lúa: cần theo dõi thường xuyên để phát hiện bệnh sớm và phòng trừ bằng các loại thuốc đặc trị. Khi sử dụng thuốc phải pha đúng liều lượng hướng dẫn ghi trên bao bì của mỗi loại thuốc.
2.10. Thu hoạch
Để đảm bảo cho hạt lúa đạt chất lượng cao như hạt lúa sáng, hạt gạo trong không đục, không bị răn nứt và có mùi thơm việc xử lý trước, trong và sau thu hoạch cần thực hiện qua một số công đoạn như sau: Trước và sau khi trổ, phòng ngừa bệnh khoan cổ bông (thối cổ gié); Chú ý không để rầy nâu, bọ xít hôi tấn công lúc lúa cong trái me; Rút khô ruộng lúc 15 ngày sau khi trổ, sẽ giúp lúa chín nhanh; Cắt và tuốt hạt ngay sau khi có 90% hạt lúa chín vàng; Không phơi mớ ngoài đồng; Tập trung phơi khô nhanh nhất sau khi tuốt hạt; Không phơi trên sân ciment; Phơi cho đủ độ khô cần thiết, ẩm độ khoảng 14%.