Phòng trị bệnh thường gặp trên một số loài cá nuôi

Phòng trị bệnh thường gặp trên một số loài cá nuôi.

Trong những năm gần đây phong trào nuôi cá nước ngọt phát triển mạnh mẽ nhờ lợi nhuận khá cao. Các loài cá nước ngọt như: cá tra, cá ba sa, cá rô phi, cá riêu hồng, cá lóc hoặc các loài cá nước mặn như: Cá mú, cá chẽm,… đã trở thành đối tượng chính. Tuy nhiên, do phát triển một cách tự phát nên bệnh thường bộc phát trong quá trình nuôi làm giảm sản lượng và chất lượng một cách đáng kể.

Một số bệnh nhiễm khuẩn thường gặp trên các đối tượng này như: lở loét, đốm đỏ, đốm trắng, hoại tử và xuất huyết các vây hoặc một số bệnh ký sinh trùng như: bệnh trùng bánh xe (trùng mát trời), sán lá, giun tròn, đĩa cá, rận cá,… làm ảnh hưởng không nhỏ đến tốc độ lớn, sản lượng và năng suất thu hoạch.

1. Phòng trị bệnh nhiễm khuẩn trên các loài cá nước ngọt

Bệnh nhiễm khuẩn huyết do Aeromonas

Nhóm vi khuẩn gây bệnh chủ yếu thuộc giống Aeromonas (A. Hydrophila, A. Cavie và A. Sobria ) hiện diện bình thường trong nước, đặc biệt khi trong nước có nhiều chất hữu cơ. Nó cũng có thể không gây bệnh khi cư trú trong ruột cá. Các loài cá nước ngọt như: cá Tra, cá Ba Sa, Trê, Diêu Hồng, Bống tượng, Tai tượng rất dễ mắc bệnh. Cá con dễ nhiễm bệnh hơn cá trưởng thành, có thể gây chết đến 80%.

Bệnh nhiễm khuẩn huyết do Aeromonas
Bệnh nhiễm khuẩn huyết do Aeromonas

Triệu chứng của bệnh thường được biểu hiện: bị sẫm màu từng vùng ở bụng, xuất huyết từng mảng nhỏ trên cơ thể, bị nặng sẽ bị hoại tử đuôi, vây, xuất hiện các vết thương trên lưng, các khối u trên bề mặt cơ thể, vây dễ rụng, mắt lồi, mờ đục vì phù sa bám; xung quanh bụng chứa dịch và nội tạng bị hoại tử.

Cách phòng trị: Tránh tạo ra các tác nhân cơ hội như nhiễm ký sinh trùng (nhóm nguyên sinh động vật), tránh làm xây sát cá, vệ sinh không đúng quy định, nước giàu chất hữu cơ (môi trường nuôi bị nhiễm bẩn), mật độ nuôi quá dày, hàm lượng oxi thấp, ô nhiễm từ các nguồn nước thải công nghiệp.

Dùng thuốc tím (KMnO4) tắm cho cá,liều dùng 4ppm (4g/ m3 nước) đối với cá nuôi ao và 10ppm (10g/m3 nước) đối với cá nuôi lồng bè. Xử lý lặp lại sau 3 ngày định kỳ tắm cho cá 1 tuần hoăc 2 tuần hoặc 1 tháng/ lần tuỳ thuộc vào tình trạng sức khoẻ của cá.

Có thể dùng các loại thuốc sau đây trộn thức ăn cho cá ăn: Oxytetracyline (55-77mg/kg thể trọng cá nuôi cho cá ăn 7-10 ngày), Enrofloracin (20mg/kg thể trọng cá cho ăn 7-10 ngày), Streptpmycin (50-70 mg/kg thể trọng cá, cho ăn 5-7 ngày). Kanamycin (50mg/kg thể trọng cá, cho ăn 5-7 ngày). Nhóm Sulfamid (100-200mg/kg thể trọng cá, cho ăn 10-20 ngày).

Xem thêm: Nuôi sâu gạo làm thưc ăn cho cá và chim

Bệnh nhiễm khuẩn do Pseudomonas (bệnh đốm đỏ)

Bệnh nhóm vi khuẩn Pseudomonas (P. fluorescens, P.anguilliseptica, P. chlororaphis) gây ra trên loài cá nuôi nước ngọt như: cá tra, ba sa, trê, bống tượng… triệu chứng của bệnh cho thấy: xuất huyết từng đốm nhỏ trên da, chung quanh miệng và nắp mang, phía mặt bụng. Bề mặt cơ thể có thể chảy máu, tuột nhớt nhưng không xuất huyết vây và hậu môn.

Phòng trị bệnh nhiễm khuẩn trên cá
Phòng trị bệnh nhiễm khuẩn trên cá

Vi khuẩn Psuedomonas ssp. Gây nhiễm khuẩn huyết thường liên quan đến các stess, các thương tổn da, vây do các tác nhân cơ học, nuôi với mật độ cao, dinh dưỡng kém, hàm lượng oxy giảm. Pseudomonas spp. Xâm nhập vào cơ thể cá qua các thương tổn mang, da.

Các biện pháp phòng trị gồm có: Dùng vac- cin phòng bệnh, giảm mật độ nuôi, cung cấp nguồn nước tốt, dùng thuốc tím (KMnO4 ) liều lượng 3-5ppm tắm cho cá không quy đị nh thười gian, có thể dùng các loại kháng sinh để điều trị như đối với bệnh nhiễm khuẩn huyết do Aeromonas gây ra.

Bệnh nhiễm khuẩn huyết do Edwardsiella (Edwarsiellosis)

Bệnh do vi khuẩn Edwardsiella tarda thường gây ra trên các loài cá nuôi nước ngọt như: cá tra, ba sa, diêu hồng, rô phi, bống tượng, tai tượng, chép,… Dấu hiệu bệnh lý là da trên lưng xuất hiện những vết thương nhỏ (đường kính khoảng 3-5mm). Từ những vết thương này sẽ hình thành phát triển thành những khối u rỗng bên trong cơ, da bị mất sắc tố. Cá mắc bệnh sẽ mất chức năng vận động do vây, đuôi bị tưa rách.

Có thể xuất hiện những vết thương bên dưới biểu bì, cơ, khi ấn vào có thể có mùi hôi. Các vết thương này sẽ gây hoại tử vùng cơ xung quanh. Ruột của một vài loài rắn, cá và bò sát, ếch nhái có thể là nguồn lây nhiễm nấm bệnh E. tarda. Bệnh thường xuất hiện khi môi trường nuôi xấu, nuôi với mật độ cao, nhiệt độ thích hợp để bệnh phát triển khoảng 30oC. Tuy nhiên bệnh cũng có thể xuất hiện khi nhiệt độ nước thấp hơn và dao động bất thường.

Các biện pháp phòng trị là: Cải thiện chất lượng nước trong môi trường nuôi, giảm thấp nhiệt độ nuôi, dùng vaccin phòng bệnh và có thể dùng các loại kháng sinh để điều trị như đối với bệnh nhiễm khuẩn huyết do Aeromonas gây ra.

Xem thêm: Phòng và điều trị bệnh rụt mỏ ở vịt con

2. Phòng trị bệnh trên các loài cá nước mặn do nhóm Vibrio (Vibriosis)

Bệnh do nhóm Vibrio (V. alginolyticus, V. anguillarum. Vuniicusl) gây ra trên các loài cá nuôi nước mặn như: cá mú, cá chẽm, cá măng,… Khi bệnh bùng nổ có thê gây chết cá đến 50% hoặc cao hơn ở cá nhỏ và tỷ lệ này sẽ giảm ở cá lớn, tuy nhiên cá mắc bệnh sẽ bỏ ăn và kém tăng trưởng. Triệu chứng điển hình của bệnh là kém ăn, bỏ ăn, từng vùng trên lưng cá hoặc toàn bộ cơ thể cá bị biến màu sẫm, xuất huyết trên từng vùng cơ thể, hoại tử vây, mắt lồi, đục.

Cá bị nhiễm khuẩn Vibrio
Cá bị nhiễm khuẩn Vibrio

Trong trường hợp cấp tính cá có thể chết khi chưa có biểu hiện bệnh lý, ngoài trừ bụng trướng to. Cá bị nhiễm bệnh một thời gian dài thì mang bị bạc màu, xuất hiện những vết thương có thể ăn sâu vào cơ thể. Ở trại giống khi thấy cá trong bể ương xuất hiện những đốm đỏ thì có thể khẳng định dấu hiệu nhiễm vibrio. Các loài vibrio thường phân bố rộng trong các thuỷ vực nước mặn và cửa sông. Bệnh thường xuất hiện nhiều trong mùa nước ấm và khi nồng độ muối trong nước cao, chất hữu cơ nhiều, cá bị stress dễ đưa đến nhiễm vibrio.

Cách phòng trị chủ yếu là: dùng vaccin để phòng bệnh, quản lý chất lượng nuôi tốt, giảm mật độ nuôi. Có thể dùng các loại thuốc sau đây để trộn vào thức ăn cho cá ăn: OTC (77mg/kg thể trọng cá trong 10 ngày, nên hạn chế sử dụng), Flumequine (6mg/kg thể trọng cá cho ăn trong 6 ngày), Kanamycine (50mg/kg thể trọng, dùng trong 7 ngày), nhóm Sulfamid (100-200mg/kg thể trọng ca dùng từ 10-20 ngày)

Xem thêm: Điều trị bệnh thối ấu trùng ong bằng sữa chua

3. Phòng trị bệnh do giáp xác ký sinh

3.1. Bệnh do trùng mỏ neo

Với tác nhân gây bệnh là trùng mỏ neo có tên khoa học là Lernaea, có dạng giống mỏ neo, cơ thể có chiều dài 8-16mm, giống như cái que, đầu mấu 16mm, giống mỏ neo cắm sâu vào cơ thể cá. Triệu chứng điển hình của bệnh là: cá kém ăn, gầy yếu, chung quanh các chỗ trùng bám có xuất huyết. Nơi trùng mỏ neo bám là điều kiện cho các tác nhân khác gây bệnh như nấm, ký sinh trùng, vi khuẩn… xâm nhập. Trùng thường ký sinh ở da, mang, vây, mắt… trên các loài cá như: cá lóc bông, bống tượng, chép, mè, tai tượng.

Bệnh trùng mỏ neo ở cá
Bệnh trùng mỏ neo ở cá

Biện pháp phòng trị: chủ yếu là kiểm tra cá giống trước khi nuôi, nếu phát hiện có trùng mỏ neo ký sinh dùng thuốc tím 10-25mg/m3 tắm trong 1 giờ. Có thể dùng lá xoan với liều 0,3-0,5kg/m3 nước để điều trị bệnh. Ngoài ra cũng có thể dùng thuốc Dipterex ( loại thuốc thú y thuỷ sản) với liều 50g/m3 cho vào túi treo (cả với cá nuôi bè) hoặc hoà phun vào bè hoặc ao 1g/m3, mỗi tuần 2 lần.

3.2. Bệnh rận cá:

Do trùng thuộc giống Argulus, màu trắng ngà, hình dạng giống con rệp nên gọi là rận cá hoặc bọ cá, nhìn thấy bằng mắt thường. Triệu chứng điển hình là trùng ký sinh bám trên da cá hút màu, đồng thời phá huỷ da, làm viêm loét tạo điều kiện cho các sinh vật khác tấn công. Cách chữa trị giống như đối với trùng mỏ neo hoặc dùng thuốc tím với nồng độ 10g/m3 trong 1 giờ.

Xem thêm: Kỹ thuật chống nóng cho cá, tôm

3.3. Bệnh thuỷ mi

Do 2 giống nấm Saprolegina và Achlya gây ra. Trên da cá xuất hiện những vùng trắng xám, có những sợi nấm nhỏ nhìn trong nước giống như sợi bông trên thân cá. Bệnh phân bố và lan truyền trên các giai đoạn phát triển của các loài cá nước ngọt, baba, ếch,.. đều có thể nhiễm nấm khi nuôi với mật độ dày. Nhiệt độ nước từ 18-25oC là điều kiện thuận lợi cho nấm phát triển. Quan sát bằng mắt thường có thể thấy các sợi nấm nhỏ như sợi bông, mềm, tua tủa.

Bệnh thủy mị ở cá
Bệnh thủy mị ở cá

Cách phòng trị bệnh: cần áp dụng các biện pháp tổng hợp. Dùng Potasium dichromate 20-24g/m3 phun trực tiếp xuống ao hoặc bè cá. Nếu cá có vết thương có thể bôi trực tiếp dung dịch Potasium dichromate 5% hoặc iodine 5% đối với cá bố mẹ. Dùng dung dịch thuốc tím với nồng độ 100g/m3 phun trên mặt ao cho đến khi cá xuất hiện sốc. Dùng Formalin 0,4-0,5ml/m3 trong 1 giờ hoặc Sulphat đồng (CuSO4) với liều 100g/m3 từ 10-30 phút. Đối với trứng có thể dùng 50g/m3 trong 1 giờ.

 

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *